Chuyện kể rằng vào
đời nhà Tống ở Trung quốc có một đôi bạn thân, cả hai người đều học rộng, tài
cao. Về phẩm hàm là quan nhất, nhị phẩm. Đó là nhà văn Vương An Thạch và nhà
thơ Tô Đông Pha. Văn chương, thơ phú của cả hai người đều rất nổi tiếng, Vương
An Thạch giữ chức Tể tướng Còn Tô Đông Pha thì làm quan cai trị một vùng
Hai người là bạn thân chơi với nhau từ lâu nhưng do mỗi người lại có năng khiếu
và sở trường riêng, người này giỏi văn còn người kia thì lại giỏi về thơ, vậy
cho nên Tô Đông Pha không phục Vương An Thạch, coi bạn không giỏi bằng
mình.
Biết là bạn coi
thường mình nhưng Vương An Thạch chỉ im lặng không nói gì cả. Có một lần Vương
An Thạch chủ động mời Tô Đông Pha đến tư dinh Tể tướng của mình chơi để đàm đạo
chuyện văn chương. Khi Tô Đông Pha đến, Vương An Thạch cố ý vắng mặt một cách
tế nhị khi Tô Đông Pha bước vào thư phòng của ông. Vì không thấy chủ, lại thấy
trên bàn có một bài thơ đã làm xong và một bài đang viết dở. Vì giỏi thơ, khi
nhìn thấy có thơ là ông liếc mắt đọc ngay. Một bài có đôi câu như sau:
“ Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”.
Tô Đông Pha nhíu mày, nhăn trán suy nghĩ:
Minh nguyệt là ánh trăng sáng, mà khiếu là hót. Vậy thì ánh trăng sáng, sao mà
lại hót được ở đầu núi nhỉ? Câu tiếp là Hoàng khuyển là con chó vàng thì làm
sao lại ngọa (nằm) được ở trong tâm ( giữa) bông hoa?. Ông lắc đầu và tỏ rõ ý
coi thường tác giả của bài thơ. Ông nghĩ “Vậy mà người ta cứ đồn là Vương An
Thạch giỏi”? Nhân lúc vắng chủ nhà, và sẵn tiện có bút mực tại chỗ, ông sửa lại
ngay hai câu thơ là :
“ Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm”
Có nghĩa là ánh trăng
chiếu nơi đầu núi và con chó vàng nằm dưới bóng của bông hoa. Sửa xong hai câu
thơ trên, Tô Đông Pha tỏ vẻ rất hài lòng và cho rằng khi đọc lại hai câu thơ
này thì Vương An Thạch phải phục tài của mình lắm. Thơ phải sửa như thế mới
đúng ngữ và nghĩa chứ !
Đọc tiếp bài văn thứ
hai, thấy Vương An Thạch tả cảnh mùa đông lạnh lẽo, tuyết rơi, hoa cúc
rụng tơi tả. Tự liên hệ, ông thấy rất bực mình vì trên thực tế không bao giờ có
chuyện hoa cúc lại rụng. Với hoa cúc, khi tàn héo nó vẫn cứ bám vào đài và thân
hoa cho đến khi cây cúc chết. (Hoa cúc như vậy nên các đôi trai gái khi yêu
thường lấy hoa làm biểu tượng để tặng cho nhau thể hiện sự chung thủy của mình).
Ông cầm bút viết ngay vào bên cạnh bài văn để nói thẳng với tác giả rằng “Hoa
cúc không bao giờ rụng cả”.
Biết mình chức, tước
và phẩm hàm còn dưới Vương An Thạch nên lúc ra về suy nghĩ lại, ông biết mình
phạm thượng, vì Vương An Thạch là quan đầu triều, thế nào mình cũng sẽ bị trị
tội, bị trả thù là cái chắc.
Quả đúng như dự đoán,
sau một thời gian ngắn Tô Đông Pha nhận được“ trát” điều đi nhậm chức tận vùng
phương Bắc xa xôi như đi “đày”. Tô Đông Pha hối hận và nhận ra hậu quả việc làm
bồng bột của mình! Còn với tể tướng Vương An Thạch, sau khi ban “trát” điều Tô
Đông Pha đi, ông hạ lệnh” các quan lại địa phương mà Tô Đông Pha đến làm việc
là phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ông tìm hiểu đất đai, thổ nhưỡng
cũng như thiên nhiên vùng đó và phải đối xử với tiên sinh Tô Đông Pha như
bậc đại khách”.
Là một người yêu
thiên nhiên và biết cảm thông với nỗi thống khổ của người dân ở vùng đất khô
cằn, khắc nghiệt, Tô Đông Pha thường xuyên tiếp xúc với dân, ông thỏa sức du
ngoạn để tìm hiểu về con người và đất đai khắp vùng. Vì sống hòa đồng và hết
sức thân thiện với mọi người nên ông đi đến đâu cũng được từ quan đến dân đón
tiếp chân thành và nồng thắm.
Có một lần đến thăm
một làng quê nọ Tô Đông Pha bỗng nghe thấy tiếng chim lạ hót véo von, tiếng hót
rất trong lại vang vọng vào núi đá. Nhà thơ hỏi đấy là loại chim gì mà hót hay
như vậy? Những người dân địa phương trả lời: Đấy là tiếng hót của chim Minh
Nguyệt.
Có một lần khác khi
đi thăm một vườn trồng hoa, thấy mọi người đang bắt sâu, đó là một loại sâu lạ
nằm giữa bông hoa để ăn nhụy. Ông hỏi đó là sâu gì thế ? Những người nông dân
trả lời: Đó là sâu Hoàng Khuyển. Thì ra trên thực tế có cả loại chim Minh
Nguyệt và loài sâu Hoàng Khuyển thật. Vì tự cao không hiểu hết ý và tự
sửa bài thơ của Vương An Thạch, làm sai nội dung và tứ thơ hay của bài thơ
!
Thời gian trôi đi,
khi mùa đông phương Bắc lạnh lẽo tràn về, Tô Đông Pha ngồi trong nhà nhìn ra
ngoài thấy tuyết trắng xóa bay đầy trời và ở dưới vườn nhà những cánh hoa
cúc bị tuyết bám vào rụng rơi lả tả. Nhà thơ lại giật mình lần nữa và
không tránh được tiếng thở dài, thì ra có hoa cúc rụng thật. Chỉ có điều là nó
rụng trong hoàn cảnh và môi trường như thế nào mà thôi.
Ông ngồi suy nghĩ và
hồi tưởng lại những sự việc đã diễn ra trong thời gian vừa qua, thấy rõ sự hiểu
biết quá cạn cợt của mình, nghĩ việc mình được bổ nhiệm làm quan nơi xa xôi,
được tiếp xúc, du ngoạn và được đón tiếp thịnh tình lại có thêm nhiều hiểu biết
và những vốn sống phong phú ở một vùng thiên nhiên kỳ thú nhưng cũng vô cùng
khắc nghiệt này. Tô Đông Pha bỗng nhận ra bạn mình Vương An Thạch, quan
Tể tướng – Nhà văn không phải là người tầm thường, không phải trả thù hay “ đầy” mình lên biên cương mà
chính là quan tâm tạo điều kiện cho mình đi “ thực tế” để có thêm vốn sống và
kiến thức từ trong dân gian.
Vừa thấm thía, vừa
biết ơn cộng với sự cảm phục, nhà thơ Tô Đông Pha liền ngồi viết thư tạ lỗi với
tể tướng Vương An Thạch. (ST)